Trang Chủ » Cám mì: Thức ăn chăn nuôi, thuỷ sản

Cám mì: Thức ăn chăn nuôi, thuỷ sản

1,8K lượt xem

1. Cám mì là gì?

Cám là lớp bên ngoài (hình 2 và 3) của hạt gạo mì lứt (hạt lúa mì – hình 1) sau khi đập tách vỏ trấu.

Song song với cám, tấm, cám mì là một nguồn thức ăn năng lượng quan trọng trong thức ăn chăn nuôi và thuỷ sản nước ta. Ngoài số lượng cám có được từ công nghiệp bột mì trong nước, cám mì còn được nhập khẩu nhiều trăm nghìn tấn hàng năm. Sản xuất lúa gạo nước ta còn mang nặng tính thời vụ cho nên có những lúc các nhà máy thức ăn chăn nuôi-thuỷ sản phải nhập khẩu cám mì để thay thế cám gạo do giá mua có rẻ hơn. Vấn đề đối với chúng ta là chất lượng sử dụng của cám mì ra sao.

Tuy nhiên “cám mì” được bán để làm thức ăn vật nuôi thường bao gồm cám và bột nghiền của “bổi” qua sàng xát gạo, tức là có gạo bể, mầm, mảnh mày và cả mảnh cuống hạt lúa. (Như vậy tương đương sang tiếng Anh thì cám mì y là wheat bran và “cám mì” là wheat middlings, tức là cám mì thô nhưng cũng thường bị áp đặt là “wheat bran”).  Cám mì y chỉ có được ở các nhà máy xay xát gạo mì lứt có gia ẩm. Cám mì thô là phụ phẩm của nhà máy xay xát lúa mì khô lấy bột mì.

Cám mì tiêu chuẩn có thành phần dinh dưỡng bình quân 89% vật chất khô, 16,5% protein thô, 9,75% xơ thô, 42% NDF, 16% ADF và năng lượng tương đương 91% bắp hạt. Những năm gần đây nguồn nhập cám mì vào nước ta chủ yếu là Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia, Sri Lanka; phần lớn là dạng viên và ít hơn là dạng bột; dinh dưỡng lúc còn mới biến động xung quanh 87% vật chất khô, 15% protein thô, 4% béo thô, 10% xơ thô, 0,6% lysin, 0,27% methionin, 5,3% tro, 0,15% calci, 1,8% phosphor tổng số, năng lượng khoảng 2400 kcal ME/kg ở heo, 2200 kcal ME/kg ở gia cầm  9,8 Mj DE/kg ở đại gia súc và  2750 kcal DE/kg ở cá tra. Tiêu chuẩn chất lượng cám mì được Bộ Nông nghiêp-PTNT qui định: ẩm độ ít hơn 12%, không mùi chua mốc, độc tố aflatoxin không quá 50 ppb.

cám mì

Hình 1: Bông lúa mì | Hình 2: Gạo mì lứt

2. Cám mì dùng cho đại gia súc

Ở các nước ôn đới và những nước khác có trồng lúa mì, cám mì được dùng rất nhiều trong thức ăn đại gia súc, thay thế 40-50% bắp hạt hoặc yến mạch trong khẩu phần thức ăn tinh, và đạt lợi nhuận từ hạ giá thành thức ăn trên đơn vị sản phẩm chăn nuôi.

Bê, nghé ăn khẩu phần hỗn hợp có chứa 30% cám mì vẫn đảm bảo sinh lý bình thường, không bị chướng hơi như khi ăn thức ăn hạt, tiêu hoá tốt thức ăn và sinh trưởng tốt.

cám mì

Hình 3. Sơ đồ cấu tạo một hạt gạo mì lứt (kernel – hạt lứt; endosperm – nội phôi nhũ; bran – cám; germ – mầm). Nội phôi nhũ chứa tinh bột, chiếm 83% khối lượng hạt gạo lứt; cám thì chứa protein và xơ, chiếm 14%; mầm thì nhiều protein, dầu và vitamin, chiếm 3%.

cám mì

Hình 4. Cấu tạo mô học hạt mì lứt: a- tế bào cám; b- tế bào vỏ lụa; c- tế bào gluten; d- tế bào tinh bột

cám mì

Hình 5. Cám mì dạng bột và Cám mì dạng viên

Cám mì có hàm lượng xơ cao hơn bắp (9,7 so với 2,9%) và tinh bột thấp hơn (27 so với 64%) cho nên bò ăn cám mì ít bị rối loạn tiêu hoá và chứng toan huyết hơn khi ăn bắp. Bản thân chất xơ thì hàm lượng xơ axít (ADF) dễ tiêu hoá của cám mì cũng rất cao hơn bắp: 13,5 so với 3,3%. Nghiên cứu ở đại học bang Dakota bắc năm 1999 cho biết bò thịt vỗ béo và bò cái sinh sản  chăn thả khi được bổ sung khẩu phần thức ăn tinh là 3,5 kg cám mì đơn lẻ hay một hỗn hợp bắp+khô dầu nành, cho tương đương nhau về protein thô, thì tăng trọng và năng  suất sinh sản cũng ngang nhau. Như vậy cám mì là một thức ăn tinh được nhà chăn nuôi bò chăn thả chọn lựa ưu tiên, trước những hỗn hợp tinh hạt+đạm, do đơn giản hơn trong thao tác mà chi phí thức ăn lại tiết kiệm nhiều hơn.

Bò chuyên thịt như Angus nuôi vỗ béo từ 270 lên 320 kg với cỏ khô alfalfa ăn tự do có bổ sung cám mì, ở mức 1,5% thể trọng, có thể đạt tăng trọng cao đến 1130 g/ngày.

Đối với bò sữa, ngoài vai trò cung cấp năng lượng và protein cho chức năng tạo sữa thì hàm lượng chất xơ trung tính (NDF) cao của cám mì (32%) còn có tác dụng thoả mãn nhu cầu làm đầy dạ cỏ để kích thích quá trình tiết sữa. Ở Ấn Độ và Thái Lan, năng suất và chất lượng sữa của trâu sữa ăn khẩu phần có cám mì hoặc cám gạo đều tương đương nhau, đồng thời các chỉ tiêu dinh dưỡng cũng tương đồng.

Tuy nhiên ta không nên vượt mức cám mì tối đa 5 kg/bò/ngày. Lý do là cám mì có phần tinh bột lẫn vào (thường từ 14-24%) cùng với số bột mịn vỏ trấu, gây xáo trộn tiêu hoá dẫn đến chẳng những bản thân mức tiêu hoá cám bị hạ thấp mà còn kéo theo các chất dinh dưỡng và cả mức ăn thức ăn cũng giảm đi, cho dẫu cám mì có vị ngon cao hơn các thức ăn hạt.
       
3. Cám mì dùng cho heo

Cám mì được sử dụng mức độ ít hơn, chỉ có khả năng thay thế được 36% khối lượng thức ăn hạt trong khẩu phần heo cái chửa và khoảng 27% ở heo nái nuôi con. Heo con và heo choai có thể sử dụng tốt 30% cám mì trong khẩu phần và cũng lợi dụng được những ưu điểm của cám mì đối với vấn đề bệnh lý.

Cám mì cũng có lợi thế về mặt hạn chế gây ô nhiễm môi trường. Chất xơ tiêu hoá (ADF) của cám mì chuyển quá trình  bài thải nitơ đường tiểu (ở dạng urê) sang đường phân (dưới dạng protein bền của vi khuẩn). Heo không tiêu hoá hết chất xơ trong thức ăn ăn vào, do đó một số chất xơ ấy được dùng làm nguyên liệu năng lượng cho vi khuẩn khu trú ở ruột già. Với năng lượng có thêm ấy, vi khuẩn ruột tiếp thu nitơ trong máu (dạng amônhăc, đáng lẽ phải bài thải vào nước tiểu) để tổng hợp protein, như vậy cắt đi khí amônhăc heo bài thải vào không khí. Hơn nữa tăng số vi khuẩn ruột còn gia tăng sản sinh axít béo bay hơi (VFA); các axít nầy kéo giảm pH ruột, bẩy bắt khí amônhăc (NH3) để chuyển thành ion amôn (NH4+) ở trong phân, cho nên không có khí amônhăc bài thải  làm ô nhiễm không khí.

4. Cám mì sử dụng cho gia cầm

Gà vịt đẻ thương phẩm có thể sử dụng khẩu phần ăn có chứa từ 25-45% cám mì, đảm bảo tất cả các chỉ tiêu sinh trưởng cũng như năng suất và chất lượng trứng ngang với khẩu phần qui ước bắp+khô dầu nành. Khẩu phần 25% cám mì cho chất lượng trứng tốt hơn khẩu phần qui ước. Khẩu phần 45% cám mì vẫn đảm bảo sinh trưởng và năng suất, chất lượng trứng nhưng tiêu tốn thức ăn cao hơn khẩu phần qui ước (khoảng 2%). Khẩu phần quá nhiều cám mì (ví dụ 89%) vẫn đảm bảo sinh trưởng và chất lượng trứng như khẩu phần 45% cám mì nhưng năng suất trứng sụt giảm rõ (ví dụ tỷ lệ trứng trên gà có mặt – hen-day egg production – là 67,5 so với 79%).

Thức ăn vịt đẻ của xí nghiệp thức ăn địa phương, những mùa cám tấm cao giá, có khi sử dụng đến trên 30% cám mì mà vẫn đảm bảo cho vịt “siêu thịt” đẻ trên “bảy phân rưỡi” suốt 9 tháng ở vụ 2 và vịt kiêm dụng, vịt trứng (Nông nghiệp “Hoà lan”, Tàu, Cổ cò) đẻ trên “chín phân” suốt 11 tháng ở vụ 2 với chất lượng trứng cao.

Cám mì, cũng như các loại thức ăn hạt cốc khác, thường bị “kết tội” là có nhiều đường đa không tinh bột (NSP) gây độ nhờn cao cho thức ăn trong đường ruột tổn hại đến khả năng tiêu hoá thức ăn và hấp thu chất dinh dưỡng của gia cầm . Tuy nhiên, người ta cũng thường thấy rằng NSP của khô dầu nành còn cao hơn cám mì và vẫn được sử dụng không ít trong thức ăn gia cầm; ví dụ hàm lượng (%) các thành phần NSP của cám mì và khô dầu nành như thế nầy: tổng NSP 8,1 và 17,2; arabinose 1,9 và 2,0; xylose 2,4 và 1,8; mannose 0,2 và 0,6, galactose 0,4 và 2,9; 2,6 và 6,7; axít uronic 0,6 và 2,5. Cellulose là NSP quan trọng nhất của mọi nguyên liệu hạt; trong lúc cellulose của cám mì còn thấp hơn cám gạo. Người ta đã thực nghiệm thấy ở tất cả các loại gia cầm rằng dùng cellulase là đạt hiệu quả cơ bản và cao hơn các NSPase khác.

Cám mì cũng có tác dụng rút giảm ô nhiễm khí amônhắc trong chuồng nuôi gia cầm. Cơ chế tác dụng của cám mì ở đây cũng giống như ở heo. Đưa chất xơ dễ tiêu vào khẩu phần ăn, thông qua các nguyên liệu như cám mì, vỏ hạt đậu nành, khô hèm rượu có dịch tan (DDGS), chuồng gà đẻ giảm đi được 50% lượng khí thải NH3. Vi khuẩn gia tăng trong ruột già thu dụng axít uric nên giảm số lượng chất nầy trong phân gà do đó giảm số lượng khí NH3 sản sinh. Thêm vào đó VFA của vi khuẩn cũng tham gia bẩy bắt NH3 trong phân.

5. Cám mì dùng cho thuỷ sản

Thức ăn năng lượng cần được nhà chăn nuôi thuỷ sản quan tâm nhiều hơn do:

(1) Năng lượng cần thiết cho cá tôm sinh trưởng và tạo sản phẩm chẳng những xuất phát từ nguồn thức ăn năng lượng rẻ tiền mà còn bị bức rút ra từ thức ăn đạm đắt tiền

(2) Cám, tấm là nguyên liệu lớn, chủ lực, “có sẵn ở địa phương” nhưng giá luôn luôn biến động theo và không theo qui luật mùa vụ và luôn sẵn nguy cơ mất chất qua tồn trữ hoặc do tráo trộn

(3) Bộ ba cám + khô dầu nành + bột cá làm ra mọi công thức thức ăn cho cá tôm

Cám mì đã tỏ ra là một ứng cử viên cho nguồn nguyên liệu năng lượng ổn định có lẽ đối với mọi địa phương nước ta hiện nay.

Kinh nghiệm nuôi cá lăng (channel catfish) ở Mỹ cho thấy cám mì được sử dụng cho mọi loại cá với mức 15-30% trong khẩu phần ăn, cá đạt năng suất và chất lượng ngang bằng hoặc tốt hơn bắp. Các loại thức ăn cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long sử dụng tốt mức cám mì thay thế 40-70% cám, tấm; thức ăn viên được gia tăng độ kết dính và độ nổi, cá vẫn đạt hệ số tiêu tốn thức ăn và chất lượng thương phẩm.

Điểm yếu quan trọng của cám mì nhập khẩu là sinh sâu mọt nhanh, cho nên quy trình tồn trữ và bảo quản cơ bản cần được coi trọng nhiều hơn nếu nhà sản xuất thức ăn không muốn cá quay lưng lại mình.

Ts. Võ Ái Quấc

Ts. Nguyễn Nhựt Xuân Dung

Câu Hỏi Thường Gặp

Cám mì là gì?

Cám mì là một nguồn thức ăn năng lượng quan trọng trong thức ăn chăn nuôi và thuỷ sản nước ta. Ngoài số lượng cám có được từ công nghiệp bột mì trong nước, cám mì còn được nhập khẩu nhiều trăm nghìn tấn hàng năm. Sản xuất lúa gạo nước ta còn mang nặng tính thời vụ cho nên có những lúc các nhà máy thức ăn chăn nuôi-thuỷ sản phải nhập khẩu cám mì để thay thế cám gạo do giá mua có rẻ hơn.

Cám mì làm thức ăn cho vật nuôi nào?

1. Cám mì dùng cho đại gia súc; 2. Cám mì dùng cho heo; 3. Cám mì sử dụng cho gia cầm; 4. Cám mì dùng cho thuỷ sản.

Print Friendly, PDF & Email

Originally posted 2019-05-20 09:25:14.

Bài Viết Liên Quan

Viết Bình Luận

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.