Sản xuất giống hàu là giải pháp hoàn hảo để cung cấp giống một cách chủ động, nhưng đòi hỏi phải đầu tư lớn về phương tiện và nhận lực. Địa điểm có thể tiến hành sản xuất giống hàu là vùng ven biển, ao đầm nước lợ có điều kiện thủy lý hóa, môi trường tự nhiên đảm bảo các yêu cầu sau:
– Nhiệt độ nước: 20 – 32 độ C
– Độ mặn: 15-25 phần ngàn
– pH: 7,8 – 8,0
– DO: 4-6 mg/l
Các bước sản xuất giống hàu như sau:
1. Thu gom hàu bố mẹ
Theo các kết quả nghiên cứu cho thấy các loài hàu giống Crassostrea có thể chuyển giới tính giữa các mùa sinh sản. Tỷ lệ đực: cái của hàu cửa sông (Crassostrea rivularis) như sau:
Từ tháng 7 đến tháng 11, tỷ lệ đực: cái là 21-61%: 40-68%. Đây là thời điểm mà tỷ lệ hàu có sản phẩm chín muồi cao nhất.
Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, tỷ lệ đực: cái là 38-90%: 0-16%.
Mùa vụ sinh sản của hàu vào khoảng từ tháng 4 đến tháng 10 hàng năm.
Chính vì vậy, việc thu gom hàu bố mẹ có thể dựa vào mùa sinh sản trong tự nhiên. Các cá thể được lựa chọn có kích thước lớn, hình dáng đẹp, vỏ không bị trầy xước, có tuyến sinh dục phát triển. Chiều dài vỏ có kích thước trung bình khoảng 9-10 cm, chiều cao vỏ khoảng 12,5 – 14,5 cm và trọng lượng toàn thân trung bình khoảng 600 – 1400g.
Các cá thể được thu gom có thể cho vào nuôi trong đầm hoặc bãi triều gần nơi sản xuất hoặc nuôi treo dưới bè trong môi trường tự nhiên trong đầm nước mặn hoặc vùng cửa sông, nơi có độ mặn từ 10-25%0, giàu thức ăn.
2. Nuôi vỗ hàu bố mẹ
Nuôi vỗ tích cực hàu bố mẹ là một công đoạn cần thiết trong quy trình sản xuát giống nhân tạo. Vì các cá thể trong tự nhiên có tuyến sinh dục phát triển không đồng đều. Nếu đưa vào cho sinh sản ngay thì tỷ lệ các cá thể tham gia sinh sản thấp và lượng trứng thu được rất ít, ấu trùng không đảm bảo chất lượng. Việc nuôi vỗ có thể giúp cho hàu bố mẹ nhanh chóng đạt độ thành thục cao nhất, giúp trứng chín đồng đều, nâng cao hiệu quả của việc xử lý nhiệt khi kích thích sinh sản.
Hàu bố mẹ được đưa vào nuôi vỗ trong các bể có thể tích 1 m3 với mật độ nuôi khoảng 20-25kg/bể.
Thời gian nuôi từ 10-15 ngày.
Chế độ cho ăn: Thức ăn là hỗn hợp các tảo hiển vi: Isochrysis galbana, Pavlova lutheri, Chaetoceros cancitrans, nannochloropsis sp, Chlorella sp. Mật độ thức ăn là 150.000 – 200.000 tb/ml. Cho ăn 2 lần/ngày.
Chế độ thay nước: quá trình nuôi vỗ theo quy trình ít thay nước, thông thường chỉ thay 1/3 thể tích bể mỗi ngày. Những ngày cuối cùng của chu kỳ nuôi có thể không cần thay nước. Việc thay nước thường xuyên, liên tục cũng ảnh hưởng tới sự phát triển của tuyến sinh dục. Khi tuyến sinh dục của hàu thành thục thì sự thay đổi các yếu tố môi trường đều có thể làm cho hàu sinh sản ngoài ý muốn.
Sục khí nhẹ và liên tục 24/24h.
3. Kích thích sinh sản
Sau quá trình nuôi vỗ, kiểm tra tuyến sinh dục của hàu thấy rõ cơ quan sinh dục, tuyến sinh dục có màu trắng sữa chứa đầy nội tạng. Lúc này có thể tiến hành kích thích cho đẻ.
Điều kiện cần thiết cho sinh sản là nhiệt độ. Mỗi một loài sinh sản ở một ngưỡng nhiệt độ nhất định.
Hàu trước khi chuyển vào bể đẻ được đánh rửa sạch sẽ. Bể đẻ là các thùng nhựa có thể tích 120 lít. Dùng heter nhiệt để tăng nhiệt độ môi trường nước nuôi lên 2 – 30C trong vòng 30 phút, sau đó lại đưa nhiệt nước trở lại nhiệt độ ban đầu. Lặp lại 1- 2 lần quá trình tăng nhiệt. Phần lớn các cá thể có tuyến sinh dục phát triển giai đoạn 3 đều tham gia sau 1 – 2 lần chịu ảnh hưởng của kích nhiệt.
Sức sinh sản của hàu rất lớn và tùy thuộc vào kích cỡ cá thể, ví dụ như: hàu bố mẹ loại 40 – 80 mm sẽ cho 39 triệu trứng/ cá thể, loại 80 – 100 mm cho 81 triệu trứng/cá thể, loại 120 – 160 mm cho 184 triệu trứng/cá thể, loại > 160mm cho 257 triệu trứng/cá thể.
Yêu cầu sau quá trình kích thích bằng nhiệt độ có 50 – 60% số cá thể bố mẹ tham gia đẻ trứng, phóng tinh. Tỷ lệ thụ tinh cao từ 89 – 92%.
4. Thu trứng
Trong trường hợp mật độ tinh trùng trong bể đẻ là 1-5 tinh trùng/trứng thì không cần lọc để thu trứng, có thể chuyển sang toàn bộ số trứng sang bể ương.
Khi mật độ tinh trùng nhiều hơn 5 tinh trùng/ trứng cần phải lọc lấy trứng và loại bỏ tinh trùng trong bể đẻ nhằm hạn chế sự ô nhiễm môi trường nước ương nuôi do xác chết của tinh trùng. Dùng lưới thực vật phù du cỡ mắt lưới 40 – 50 µm để lọc trứng và loại bỏ tinh trùng. Trứng được rửa nhiều lần bằng nước biển lọc sạch.
5. Ương ấu trùng
Trứng được chuyển vào các bể ương ấu trùng, sử dụng các bể composit hoặc các bể xi măng có dung tích 2-3 m3 để ương ấu trùng từ giai đoạn đỉnh vỏ thẳng đến giai đoạn đỉnh vỏ lồi có điểm mắt và chuẩn bị bám. Quá trình phát triển của trứng và ấu trùng được trình bày trong bảng sau:
Giai đoạn phát triển | Thời gian | Kích thước (µm) |
Trứng thụ tinh | 30 phút | 50 |
Cực thể thứ nhất | 1 giờ | 50-60 |
Cực thể thứ hai | 1 giờ 30 phút | 50-60 |
Phân cắt lần 1 | 2 giờ | 60 |
Phân cắt lần 2 | 2 giờ 10 phút | 60 |
Giai đoạn phôi nang | 5 – 10 giờ | 60-70 |
Ấu trùng Trochophore | 12 giờ | 70 |
Ấu trùng đỉnh vỏ thẳng | 24 giờ | 80 |
Âu trùng đỉnh vỏ lồi | 8 ngày | 150 |
Ấu trùng có điểm mắt | 18 ngày | 170 |
Ấu trùng có chân bò | 20 ngày | 220-250 |
Ấu trùng bám | 15 – 20 ngày | 250-300 |
– Mật độ ương: trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển của ấu trùng có thể ương với mật độ 15-20 ấu trùng/ml nước, sau 5-7 ngày san thưa xuống còn 10-12 ấu trùng/ml nước và 5 -7 ấu trùng/ml nước sau 20 ngày. Sử dụng lưới phù du có kích thước phù hợp vớt san thưa.
– Cho ăn: Khi chuyển sang ấu trùng đỉnh vỏ thẳng (khoảng 48 – 52 giờ sau khi trứng được thụ tinh) tiến hành cho ăn. Lúc này thức ăn là các tảo hiển vi như Nannochloropsis sp, Chlorella sp. Từ ngày thứ 5 trở đi thức ăn là hỗn hợp các loài tảo hiển vi Isochrysis galbana, Pavlova lutheri, Chaetoceros cancitrans, nannochloropsis sp, Chlorella sp. Mật độ thức ăn 150.000 – 200.000 tế bào/ml. Cho ăn 2 lần/ngày.
– Quản lý bể ương: thay 1/2 thể tích nước mỗi ngày và 100% thể tích nước sau 2 ngày và chuyển bể mới. Lọc ấu trùng theo 2 cách: xiphông qua thành bể hoặc rút từ đáy. Kiểm tra kích thước ấu trùng hàng ngày bằng kính hiển vi để lựa chọn lưới lọc có mắt lưới phù hợp với kích thước của ấu trùng và của từng kiểu lọc. Rửa sạch bể ương sau khi chuyển bể mới và cấp nước vào trước 1 ngày.
Nước cung cấp cho quá trình ương nuôi ấu trùng phải được để lắng 3-4 ngày, sau đó lọc thô qua hệ thống lọc cát và lọc tinh qua ống lọc 5 µm. Luôn đảm bảo oxy hòa tan ở mức trên 6 mg/l, pH: 7,8, độ mặn từ 15-20%0.
Sục khí nhẹ.
6.Nuôi sinh khối tảo làm thức ăn cho ấu trùng (song song với quá trình ương ấu trùng)
– Nuôi giống thuần lần thứ nhất: nuôi sinh khối ở mức 5-10 lít, cung cấp nguồn giống thuần cho các trại sản xuất giống. Sử dụng hệ thống chiếu sáng bằng đèn neon, sục khí mạnh vừa và liên tục.
Mật độ tảo có thể đạt 3 – 4 x 106 tb/ml.
– Nuôi sinh thái tại cơ sở sản xuất
Tảo được nuôi trong các túi nylông hoặc các thùng nhựa có dung tích 120 lít. Môi trường dinh dưỡng để nuôi tảo là môi trường Colway hoặc môi trường F2 với nồng độ 1 ml môi trường/1 lít nước. Sục khí mạnh vừa và liên tục. Nước cung cấp cho hệ thống nuôi sinh khối tảo phải được lọc tinh qua ống lọc 1 µm.
7. Âu trùng bám và thu con giống cỡ nhỏ
Trong điều kiện nhiệt độ 28 – 300C, độ mặn 18 – 20%0, sau 20 ngày ấu trùng hàu xuất hiện chân bò và có khả năng bám. Lúc này có thể tiến hành thu con giống cỡ nhỏ. Phương pháp thu con giống phụ thuộc vào hình thức nuôi, nếu nuôi khay hoặc nuôi túi thì thu con giống dạng đơn, nếu nuôi giàn bè, nuôi đáy thì có thể thu con giồng bám.
– Thu con giống dạng đơn:
+ Thu con giống bằng các tấm nhựa PVC: các tấm nhựa PVC cắt ngắn từ 15-30 cm làm thành một chuỗi từ 10-15 tấm và thả vào bể có ấu trùng sắp bám. Sau 3 ngày ấu trùng đã bám cố định trên những tấm nhựa này.
Nuôi ấu trùng đã bám trong bể ương 15 ngày rồi chuyển nuôi ngoài và nuôi thành con giống cỡ 2-2,5 cm. Tách hàu giống bằng cách dùng tay uốn cong các tấm nhựa này, thu con giống rời và đem ra nuôi thành hàu thương phẩm. Khi nuôi lớn chúng phát triển không khác với con giống vào vật bám nhỏ. Đây là một phương pháp thu con giống rời đơn giản, dễ làm, dễ áp dụng trong điều kiện hiện tại ở nước ta.
+ Thu giống đơn bằng bột vỏ điệp, hàu: trong quá trình ương nuôi, qua theo dõi hàng ngày, khi thấy ấu trùng ở giai đoạn hậu ấu trùng đỉnh vỏ, trên 80% lượng ấu trùng trong bể đã có điểm mắt và chân đã hoạt động, kích thước trên 300 µm. Dùng dây chuyên dùng hoặc khay có đường kính 50-70 cm, cao 15-20cm, đáy là lưới thực vật phù du có cỡ mắt lưới 200 – 250 µm, trên đó rải một lớp bột vỏ hàu và điệp có kích thước 300 – 350 µm, ấu trùng sẽ bám vào bột vỏ này vĩnh viễn. Có thể sử dụng bột xi măng có kích thước 1-2 mm để thay thế. Ấu trùng được đưa vào khay với mật độ 5-7 con/ml, dùng hệ thống nước chảy tràn để duy trì 3-4 ngày. Khi ấu trùng bám hết thì chuyển sang hệ thống ương thành con giống
-Thu con giống bám
Sử dụng các vật bám khác nhau như vỏ hàu, vỏ điệp, vỏ sò… xâu thành chuỗi dài 50-60 cm thả vào bể có ấu trùng sắp bám. Sau 3 – 4 ngày, chuyển các chuỗi treo dưới giàn, bè để tiếp tục ương thành con giống cấp 2 cỡ 2-2,5 cm.
Đây là phương pháp thu con giống rất phổ biến, vỏ điệp là loại vật bám rẻ tiền, dễ kiếm và rất tiện lợi. Trong quá trình nuôi lớn có thể tách riêng cá thể mà không ảnh hưởng tới các cá thể khác.
8. Ương thành con giống cỡ 2-2,5cm
Khi đã có con giống cỡ nhỏ (dưới 1mm) phải qua một thời gian ương thành con giống cỡ lớn. Phương pháp hiện nay là sử dụng các khay gỗ 60 x 120 cm, đáy là lưới để ương thành con giống cỡ lớn (2-2,5cm).
Câu Hỏi Thường Gặp
Nên sản xuất giống hàu trong môi trường như thế nào?
(1) Nhiệt độ nước: 20 – 32 độ C; (2) Độ mặn: 15-25 phần ngàn; (3) pH: 7,8 – 8,0; (4) DO: 4-6 mg/l.
Sản xuất giống hàu bao gồm những bước nào?
1. Thu gom hàu bố mẹ; 2. Nuôi vỗ hàu bố mẹ; 3. Kích thích sinh sản; 4. Thu trứng; 5. Ương ấu trùng; 6.Nuôi sinh khối tảo làm thức ăn cho ấu trùng (song song với quá trình ương ấu trùng); 7. Âu trùng bám và thu con giống cỡ nhỏ; 8. Ương thành con giống cỡ 2-2,5cm.
Originally posted 2014-04-14 11:10:30.