Trong bài viết này, hãy cùng Farmvina tìm hiểu một số khái niệm về phân tích chuỗi giá trị nông sản. Bài viết thuộc chuỗi Marketing nông nghiệp.
1. Giới thiệu
Tài liệu này được xây dựng trên cơ sở các tài liệu nghiên cứu về thị trường của các dự án về marketing nông sản đã thực hiện ở Việt Nam và dựa vào kinh nghiệm của người viết trong quá trình tham gia thực hiện các đề tài nghiên cứu chuỗi giá trị một số mặt hàng nông – thủy sản ở Việt Nam.
Tài liệu cung cấp các khái niệm cơ bản về chuỗi giá trị, kênh thị trường, quản lý và nâng cấp chuỗi để giúp cho cán bộ khuyến nông, các chủ nhiệm Câu lạc bộ khuyến nông, các chủ nhiệm Hợp tác xã có các kiến thức cơ bản về tiếp cận thị trường theo quan điểm chuỗi giá trị, từ đó cải thiện vấn đề tiêu thụ hàng hóa nông sản tốt hơn.
Xem chuỗi bài viết trong khóa học Marketing Nông Nghiệp tại ĐÂY
2. Khái niệm chuỗi giá trị
Theo TS Võ Thị Thanh Lộc (Trường Đại học Cần thơ) thì có nhiều định nghĩa về chuỗi giá trị theo từng cách tiếp cận khác nhau, nhưng nhìn chung chuỗi giá trị có 03 luồng khái niệm và nghiên cứu chính như sau:
● Phương pháp Filière (chuỗi, mạch)
Phương pháp Filière gồm có nhiều trường phái tư duy và truyền thống nghiên cứu khác nhau. Khởi đầu, phương pháp này được dùng để phân tích hệ thống nông nghiệp của các nước đang phát triển trong hệ thống thuộc địa của Pháp.
Phân tích chuỗi, chủ yếu là làm công cụ để nghiên cứu cách thức mà các hệ thống sản xuất nông nghiệp (cao su, bông , cà phê, dừa…) được tổ chức trong bối cảnh của các nước đang phát triển.
Trong bối cảnh này, khung Filière chú trọng đặc biệt đến cách các hệ thống sản xuất địa phương được kết nối với công nghiệp chế biến, thương mại, xuất khẩu và khâu tiêu dùng cuối cùng.
Do đó, khái niệm chuỗi (filière) được nhận thức chủ yếu bằng kinh nghiệm thực tế và được sử dụng để lập sơ đồ dòng chuyển động của hàng hóa và xác định những người tham gia vào các hoạt động. Tính hợp lý của chuỗi (filière) cũng tương tự như khái niệm rộng về chuỗi giá trị (đã trình bày ở trên).
Tuy nhiên, khái niệm chuỗi chủ yếu tập trung vào các vấn đề của các mối quan hệ vật chất và kỹ thuật được tóm tắt trong sơ đồ dòng chảy của các hàng hóa và sơ đồ mối quan hệ chuyển đổi.
Phương pháp chuỗi có 02 luồng và có một số điểm chung so với phân tích chuỗi giá trị:
‐ Việc đánh giá chuỗi về mặt kinh tế và tài chính (được trình bày trong Duruflé, Fabre và Yung, 1988 và được sử dụng trong một số dự án phát triển do Pháp tài trợ trong thập niên 80 & 90) chú trọng vào vấn đề tạo thu nhập và phân phối trong chuỗi hàng hóa và phân tách các khoản chi phí, thu nhập giữa kinh doanh nội địa và quốc tế nhằm phân tích sự ảnh hưởng của chuỗi đến nền kinh tế quốc dân và sự đóng góp của nó vào GDP theo “phương pháp ảnh hưởng” (“Methode des effets”).
‐ Phân tích có tính chất chú trọng vào chiến lược của phương pháp chuỗi, được sử dụng nhiều nhất ở trường Đại học Paris – Nanterre, một số viện nghiên cứu như CIRAD và INRA, các tổ chức phi chính phủ như IRAM (về phát triển nông nghiệp), nghiên cứu một cách có hệ thống sự tác động lẫn nhau của các mục tiêu, các cản trở và kết quả của mỗi bên có liên quan trong chuỗi; các chiến lược cá nhân và tập thể cũng như các hình thái qui định mà Hugon (1985) đã xác định là có 04 loại liên quan đến chuỗi hàng hóa ở Châu Phi được phân tích gồm qui định trong nước, qui định về thị trường, qui định của nhà nước và qui định kinh doanh nông nghiệp quốc tế. Moustier và Leplaideur (1989) đã đưa ra một khung phân tích về tổ chức chuỗi hàng hóa (lập sơ đồ, các chiến lược cá nhân và tập thể, hiệu suất về mặt giá cả và tạo thu nhập, vấn đề chuyên môn hóa của nông dân, thương nhân ngành thực phẩm so với chiến lược đa dạng hóa).
● Khung phân tích của Porter
Luồng nghiên cứu thứ 2 có liên quan đến công trình của Porter (1985) về các lợi thế cạnh tranh. Michael Porter đã dùng khung phân tích chuỗi giá trị để đánh giá xem một công ty nên tự định vị mình như thế nào trên thị trường và trong mối quan hệ với các nhà cung cấp, khách hàng và các đối thủ cạnh tranh khác.
Trong đó, ý tưởng về lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp được ông tóm tắt như sau:
Một công ty có thể cung cấp cho khách hàng một mặt hàng (hoặc dịch vụ) có giá trị tương đương với đối thủ cạnh tranh của mình nhưng với chi phí thấp hơn (chiến lược giảm chi phí).
Hoặc, làm thế nào để một doanh nghiệp có thể sản xuất một mặt hàng mà khách hàng chấp nhận mua với giá cao hơn (chiến lược tạo sự khác biệt)…
Trong bối cảnh này, khái niệm chuỗi giá trị được sử dụng như một khung khái niệm mà các doanh nghiệp có thể dùng để tìm ra các nguồn lợi thế cạnh tranh (thực tế và tiềm năng) của mình.
Đặc biệt, Porter còn lập luận rằng các nguồn lợi thế cạnh tranh không thể tìm ra nếu nhìn vào công ty như một tổng thể. Một công ty cần được phân tách thành một loạt các hoạt động và có thể tìm thấy lợi thế cạnh tranh trong một (hoặc nhiều hơn) ở các hoạt động đó.
Porter phân biệt giữa các hoạt động sơ cấp, trực tiếp góp phần tăng thêm cho giá trị sản xuất hàng hoá (dịch vụ) và các hoạt động hỗ trợ có ảnh hưởng gián tiếp đến giá trị cuối cùng của sản phẩm.
Trong khung phân tích của Porter, khái niệm chuỗi giá trị không trùng với ý tưởng về chuyển đổi vật chất. Porter giới thiệu ý tưởng, theo đó tính cạnh tranh của một công ty không chỉ liên quan đến qui trình sản xuất.
Tính cạnh tranh của doanh nghiệp có thể phân tích bằng cách xem xét chuỗi giá trị bao gồm thiết kế sản phẩm, mua vật tư đầu vào, hậu cần (bên trong & bên ngoài), tiếp thị, bán hàng, các dịch vụ hậu mãi và dịch vụ hỗ trợ (lập chiến lược, quản lý nguồn nhân lực, hoạt động nghiên cứu…)
Do vậy trong khung phân tích của Porter, khái niệm chuỗi giá trị chỉ áp dụng trong kinh doanh. Phân tích chuỗi giá trị chủ yếu nhằm hỗ trợ các hoạt động quản lý, điều hành đưa ra các quyết định mang tính chiến lược.
● Phương pháp tiếp cận toàn cầu
Gần đây, khái niệm chuỗi giá trị còn được áp dụng để phân tích vấn đề toàn cầu hóa (Gereffi and Kozeniewicz 1994; Kaplinsky 1999). Theo đó, các nhà nghiên cứu dùng khung phân tích chuỗi giá trị để tìm hiểu cách thức mà các công ty, các quốc gia hội nhập toàn cầu đánh giá về các yếu tố quyết định liên quan đến việc phân phối và thu nhập toàn cầu. Phân tích chuỗi giá trị còn giúp làm sáng tỏ việc các công ty, quốc gia và vùng lãnh thổ được kết nối với nền kinh tế toàn cầu như thế nào.
Tương tự, theo cách tiếp cận liên kết chuỗi giá trị (ValueLinks) của GTZ (Deutsche Gesellschaft für Technische Zusammenarbeit – Đức) chuỗi giá trị là một loạt các hoạt động kinh doanh (hay chức năng) có quan hệ với nhau, từ việc cung cấp các giá trị đầu vào cụ thể cho một sản phẩm nào đó, đến sơ chế, chuyển đổi, marketing, cuối cùng là bán sản phẩm đó cho người tiêu dùng.
Hay chuỗi giá trị là một loạt quá trình mà các doanh nghiệp (nhà vận hành) thực hiện các chức năng chủ yếu của mình để sản xuất, chế biến, và phân phối một sản phẩm cụ thể nào đó. Các doanh nghiệp kết nối với nhau bằng một loạt các giao dịch sản xuất và kinh doanh, trong đó sản phẩm được chuyển từ tay nhà sản xuất, sơ chế ban đầu đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
Theo thứ tự các chức năng và các nhà vận hành, chuỗi giá trị sẽ bao gồm một loạt các đường dẫn trong chuỗi (hay còn gọi là khâu). Kết hợp với cách tiếp cận ValueLinks của GTZ, ngân hàng Phát Triển Châu Á còn giới thiệu cuốn sổ tay thực hành phân tích chuỗi giá trị với tựa đề “Để chuỗi giá trị hiệu quả hơn cho người nghèo“ hay “ Nâng cao hiệu quả thị trường cho người nghèo“ (M4P).
Đây là cách tiếp cận rất phù hợp để nghiên cứu các sản phẩm nông nghiệp, nhất là những sản phẩm có liên quan đến người nghèo.
3. Tại sao phải xem xét chuỗi giá trị?
Trong vài năm gần đây, việc phân tích chuỗi giá trị của một sản phẩm, một ngành hàng đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Có nhiều lý do để xem xét chuỗi giá trị nhưng có thể tóm lược một vài lý do sau:
‐ Phân tích chuỗi giá trị được xem như là công cụ đắc lực giúp cho những nhà quản trị, người giữ vai trò quản lý trong tổ chức, doanh nghiệp xác định đâu là những hoạt động chính của một công ty, một ngành hàng và xác định xem mỗi hoạt động đã góp phần vào chiến lược cạnh tranh cũng như sự phát triển của Công ty, của ngành hàng như thế nào.
‐ Phương pháp phân tích chuỗi giá trị là một công cụ mô tả nhằm giúp cho nhà quản trị kiểm soát được sự tương tác giữa những người tham gia khác nhau trong chuỗi. Là một công cụ có tính mô tả nên nó có lợi thế ở chỗ buộc người phân tích phải xem xét cả các khía cạnh vi mô và vĩ mô trong các hoạt động sản xuất và trao đổi, nhằm chỉ ra được năng lực cạnh tranh của một Công ty, một ngành hàng… có thể bị ảnh hưởng do tính không hiệu quả ở một khâu nào đó trong chuỗi giá trị.
‐ Giúp cho nhà quản trị đo lường được hiệu quả chung của sản phẩm, của ngành hàng và xác định được mức đóng góp cụ thể của từng nhân tố nằm trong chuỗi để có cơ sở đưa ra những quyết định phù hợp.
‐ Phân tích chuỗi giá trị có vai trò trung tâm trong việc xác định sự phân phối lợi ích của những người tham gia trong chuỗi, từ đó khuyến khích sự hợp tác giữa các yếu tố trong chuỗi để việc phân phối lợi ích vươn tới sự công bằng, tạo ra nhiều hơn giá trị tăng thêm và nâng cao lợi thế cạnh tranh.
‐ Giúp cho các nhà tạo lập chính sách có nguồn thông tin cần thiết để có những giải pháp phù hợp và không ngừng hoàn thiện chính sách vĩ mô.
4. Công cụ phân tích chuỗi giá trị Phân tích chuỗi giá trị (theo cách tiếp cận của GTZ) gồm ba bước chính:
(1) Lập sơ đồ chuỗi giá trị Mục tiêu cơ bản của việc lập sơ đồ chuỗi giá trị:
‐ Giúp hình dung được các mạng lưới để hiểu hơn về sự kết nối giữa các tác nhân và các qui trình vận hành trong một chuỗi giá trị.
‐ Thể hiện tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các tác nhân và qui trình kết nối trong chuỗi giá trị.
‐ Cung cấp cho các bên có liên quan những hiểu biết ngoài phạm vi tham gia của riêng họ trong chuỗi giá trị.
Về mặt hình thức, lập sơ đồ chuỗi giá trị có nghĩa là xây dựng một sơ đồ có thể quan sát bằng mắt thường về hệ thống chuỗi giá trị.
Sơ đồ này có nhiệm vụ định dạng các hoạt động kinh doanh (hoặc chức năng), thứ tự các nhà vận hành chuỗi, những mối liên kết của họ và các nhà hỗ trợ (nếu có) nằm trong chuỗi giá trị. Bước đầu tiên trong việc lập sơ đồ chuỗi là xác định thị trường mà sản phẩm sẽ phục vụ, nó là nơi đến cuối cùng của sản phẩm và là điểm kết thúc của sơ đồ chuỗi giá trị.
Trọng tâm của sơ đồ chuỗi giá trị là mô tả qui trình sản xuất, chế biến và phân phối sản phẩm, hoặc mô tả các hoạt động kinh doanh (chức năng) dưới dạng có thể dễ dàng nhìn thấy thông qua hướng đi của các mũi tên rỗng.
Mặt khác, sơ đồ cũng có thể mô tả chức năng của các nhóm doanh nghiệp, các nhà vận hành chuỗi. Trong đó, các nhà vận hành chuỗi được đặt chính xác dưới các chức năng để chỉ rõ mối quan hệ tương thích giữa các giai đoạn của chuỗi và các nhóm nhà vận hành chuỗi khác nhau.
Tuy nhiên, không phải lúc nào nó cũng đúng với thực tế, bởi đôi khi các nhà vận hành giống nhau nhưng lại chịu trách nhiệm trong cả hai, thậm chí trong nhiều hơn hai giai đoạn.
Quá trình xây dựng một sơ đồ chuỗi giá trị tổng thể
a. Đầu tiên là việc xác định sản phẩm cuối cùng nhằm chỉ ra đâu là sản phẩm hay dòng sản phẩm mà chuỗi giá trị đang hướng tới.
b. Xác định thị trường cuối cùng/nhóm khách hàng cuối cùng.
c. Lập danh sách các hoạt động (chức năng) đang được thực hiện để đưa sản phẩm cuối cùng ra thị trường. Danh sách các hoạt động/chức năng cần tập hợp để xây dựng nên một chuỗi bao gồm từ 4 đến không nhiều hơn 7 hoặc 8 đường liên kết chuỗi (từ giai đoạn cung cấp các yếu tố đầu vào đến hoạt động bán hàng cuối cùng).
d. Sau khi xác lập chuỗi chức năng, chuỗi/kênh chính sẽ được xây dựng bằng cách chỉ rõ các nhà vận hành tham gia thực hiện những chức năng này. Nó tạo nên một tiến trình thực hiện được trình bày theo dạng tuyến tính từ giai đoạn này sang giai đoạn khác (không có mũi tên rẽ trái hay rẽ phải). Các kênh thứ cấp (nếu có) sẽ được thiết kế sau đó và cũng phải được dựa trên kênh chính này.
e. Cần lưu ý rằng sơ đồ chuỗi giá trị chỉ bao gồm các nhà vận hành sẽ trở thành chủ sở hữu của sản phầm. Nếu họ chuyển giao hoặc ký hợp đồng thầu phụ để các công ty khác đảm nhiệm những chức năng này thì họ lại trở thành “các nhà cung cấp dịch vụ vận hành”. Trong trường hợp này, họ có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện trên sơ đồ.
f. Nếu các nhà vận hành đảm nhiệm nhiều hơn một chức năng thì chuỗi giá trị sẽ mô tả cả hai hoặc nhiều hơn hai giai đoạn chức năng mà họ đảm nhiệm.
g. Trong trường hợp các sản phẩm xuất khấu, đường biên giới được phân đinh rõ ràng giữa các nhà vận hành nội địa và các nhà vận hành ở nước ngoài.
h. Những câu hỏi thường được áp dụng trong việc lựa chọn những vấn để đưa vào sơ đồ:
‐ Có những qui trình khác nhau (căn bản) nào trong chuỗi giá trị?
‐ Ai tham gia vào những qui trình này và họ thực tế làm những gì?
‐ Có những dòng sản phẩm, thông tin tri thức nào trong chuỗi giá trị?
‐ Khối lượng của sản phẩm, số lượng người tham gia, số công việc tạo ra như thế nào?
‐ Sản phẩm (dịch vụ) có xuất xứ từ đâu và quá trình dịch chuyển trong chuỗi như thế nào?
‐ Giá trị có sự thay đổi như thế nào trong toàn chuỗi?
‐ Có những hình thức quan hệ và liên kết nào tồn tại?
‐ Những loại dịch vụ (kinh doanh) nào cung cấp cho chuỗi giá trị?…
(2) Lượng hóa và mô tả chi tiết chuỗi giá trị
Lượng hóa và mô tả chi tiết chuỗi giá trị là xác định các con số kèm theo sơ đồ chuỗi giá trị. Đó là những con số cụ thể xác định về các chỉ tiêu chi phí, doanh thu, lợi nhuận, giá trị tăng thêm của từng phân đoạn trong chuỗi. Tùy theo mục đích tiếp cận mà việc phân tích chuỗi sẽ tập trung vào những vấn đề nào là chính.
Theo lý thuyết, lượng hóa sơ đồ chuỗi giá trị là một tiến trình tương đối đơn giản, có nghĩa là thu thập số liệu và bổ sung các con số cần thiết vào các nhân tố của sơ đồ chuỗi.
Tuy nhiên, trong thực tế việc lượng hóa sơ đồ chuỗi giá trị không đơn giản chút nào, nó phụ thuộc rất nhiều vào mức độ sẵn sàng và độ tin cậy của dữ liệu thứ cấp.
Do đó, để kết quả khảo sát sử dụng được dữ liệu cần được kiểm tra chéo từ nhiều nguồn khác nhau trước khi đưa ra các quyết định. Khi lượng hóa được các chỉ tiêu cần thiết trong chuỗi giá trị thì việc mô tả chi tiết chuỗi giá trị sẽ đầy đủ và sinh động hơn.
Lúc này, đi kèm với sơ đồ liên kết là những con số, những giá trị cụ thể nên giúp cho các nhà quản trị nhìn vào sơ đồ chuỗi cũng có thể hình dung và kiểm soát được quá trình vận hành, phát triển của chuỗi như thế nào.
(3) Phân tích kinh tế chuỗi giá trị
Phân tích kinh tế đối với chuỗi giá trị là phân tích các mối quan hệ giữa các tác nhân tham gia trong chuỗi dưới góc độ kinh tế nhằm đánh giá năng lực, hiệu suất vận hành của chuỗi.
Nó bao gồm việc xác định sản lượng, chi phí, giá bán, lợi nhuận và giá trị gia tăng của các nhà vận hành tại các giai đoạn trong chuỗi và đưa ra nhận xét phù hợp.
Các thông tin phân tích kinh tế của chuỗi giá trị là một yếu tố “đầu vào” quan trọng của tiến trình quyết định các mục tiêu phát triển và chiến lược nâng cấp.
Trong đó, việc kiểm soát các chi phí sản xuất là yếu tố quan trọng nhất để khẳng định năng lực cạnh tranh. Phân tích kinh tế chuỗi giá trị bao gồm:
‐ Phân tích tình hình chi phí, cấu trúc chi phí tại mỗi giai đoạn khác nhau trong chuỗi.
‐ Phân tích giá trị đạt được của từng nhân tố tham gia vận hành trong chuỗi giá trị.
‐ Phân tích toàn bộ giá trị tăng thêm được tạo ra trên toàn chuỗi giá trị và tỷ trọng của giá trị tăng thêm tại các giai đoạn khác nhau trong chuỗi.
‐ Phân tích năng lực của các nhà vận hành chuỗi (về qui mô, năng lực sản xuất, lợi nhuận…).
(4) Tính giá trị tăng thêm
Giá trị tăng thêm được hiểu theo nghĩa rộng là cách đo lường mức độ thịnh vượng đã được tạo ra trong nền kinh tế.
Theo định nghĩa được sử dụng trong hệ thống kế toán quốc gia thì tổng giá trị gia tăng bằng với tổng giá trị thuần của tất cả các dịch vụ và sản phẩm được sản xuất ra trong nền kinh tế phục vụ cho tiêu dùng và đầu tư (tổng sản phẩm quốc nội GDP), sau lạm phát.
Để tính được giá trị tăng thêm trong một chuỗi giá trị cụ thể thì các khoản yếu tố chi phí đầu vào (nguyên vật liệu, các dịch vụ được cung cấp…) phải được khấu trừ qua giá bán hay doanh thu của từng tác nhân trong chuỗi.
Trong thực tế, để việc tính toán giá trị tăng thêm có độ chính xác cao, đảm bảo được ý nghĩa của nó thật không đơn giản chút nào bởi tính minh bạch của số liệu.
Đa phần các tác nhân tham gia vận hành chuỗi thường xem chi phí sản xuất và lợi nhuận của sản phẩm, của doanh nghiệp là “bí mật công nghệ” rất khó để các nhà nghiên cứu tiếp cận. Trong khi đó, việc tính toán giá trị tăng thêm phải gắn liền với chi phí sản xuất và lợi nhuận.
Do không có điều kiện nghiên cứu chiều sâu và không tiếp cận được nguồn dữ liệu chính thức nên trong phạm vi đề tài này, tác giả phân tích và tính toán giá trị gia tăng theo phương pháp đơn giản, dựa trên bộ số liệu thu thập được trong quá trình điều tra, khảo sát.
- Giá trị gia tăng = Đơn giá bán – Đơn giá mua = Lãi gộp, lợi nhuận biên
- Giá trị gia tăng thuần = Giá trị gia tăng – chi phí gia tăng = Lợi nhuận
5. Một số minh họa về nghiên cứu chuỗi
5.1 Chuỗi giá trị cá tra ở Đồng bằng sông Cửu long (2011)
Bản đồ chuỗi giá trị cá tra
Từ kết quả điều tra bản đồ chuỗi giá trị của cá ở ĐBSCL được trình bày sau đây:
Qua sơ đồ trên, có 4 kênh thị trường trong sản xuất và tiêu thụ cá tra:
Kênh 1: Người cung cấp đầu vào –> Người nuôi cá –> Thương lái –> Người bán lẻ/chủ vựa –> Người tiêu dùng (nội địa)
Kênh 2: Người cung cấp đầu vào –> Người nuôi cá –> Công ty chế biến –> Xuất khẩu
Kênh 3: Người cung cấp đầu vào –> Người nuôi cá –> Thương lái –> Công ty chế biến
Kênh 4: Người cung cấp đầu vào –> Người nuôi cá –> Công ty chế biến –> Người tiêu dùng nội địa
Trong nghiên cứu này, kênh thị trường 1 và 2 được phân tích để đánh giá xem người nuôi cá tiêu thụ thông qua thương lái hay công ty chế biến có lợi hơn.
Đối với kênh thị trường 1: Người cung cấp đầu vào –> Người nuôi cá –> Thương lái –> Người bán lẻ/chủ vựa –> Người tiêu dùng (nội địa)
Giá trị gia tăng: Người nuôi cá đóng góp 39%, thương lái đóng góp 31,5%, Người bán lẻ đóng góp 29,5% (bảng 1) trong toàn chuỗi. Xét về giá trị gia tăng thuần, thì người nuôi chiếm 46,6%, thương lái 17,3% và người bán lẻ 36%. Nhìn chung người sản xuất nhận được phần trăm phân bổ giá trị gia tăng qua kênh thị trường này khá thấp.
Giá bán, chi phí, giá trị gia tăng, giá trị gia tăng thuần ở kênh thị trường 1
Tổng giá trị gia tăng của chuỗi ở kênh thị trường này trung bình là 4.178 đồng/kg cá tra và giá trị gia tăng này được phân phối đến 38,98% cho người nuôi cá, 31,5% cho thương lái và 29,52% cho người bán lẻ.
Tổng lợi nhuận của chuỗi giá trị ở kênh thị trường này là 1.202 đồng/kg, trong đó người nuôi cá nhận được 46,63% tổng lợi nhuận của chuỗi, kế đến là người bán lẻ với mức 36,04% và cuối cùng là thương lái với mức phân bổ lợi nhuận là 17,33%.
Mặc dù thương lái nhận được mức phân bổ lợi nhuận ít hơn người sản xuất và bán lẻ sản lượng tiêu thụ của thương lái rất lớn so với hai tác nhân này.
Đối với kênh thị trường 2: Người cung cấp đầu vào –> Người nuôi cá –> Công ty chế biến –> Xuất khẩu
Tổng giá trị gia tăng của chuỗi theo kênh này là 7.283 đồng/kg cá tra, trong đó công ty chế biến là tác nhân tạo ra giá trị gia tăng cao nhất, lên đến 63,23% giá trị gia tăng của chuỗi và còn lại 36,77% giá trị gia tăng là do người nuôi cá tạo ra (bảng 2).
Tổng lợi nhuận trong kênh này đạt 3.209 đồng/kg cá và công ty chế biến tạo ra ra trị gia tăng cao (chiếm 63,23% giá trị gia tăng của kênh) nhưng lợi nhuận thu được chiếm 45,78% lợi nhuận của chuỗi, người sản xuất nhận được 54,22% lợi nhuận của chuỗi giá trị.
Giá bán, chi phí, giá trị gia tăng, giá trị gia tăng thuần ở kênh thị trường 2
5.2 Nghiên cứu chuỗi lúa gạo KMD 105, tỉnh Long An
Ghi chú: số % ghi trên sơ đồ là lượng % so với tổng lúa nông dân sản xuất ra (lượng gạo được quy ra lúa), chữ lúa, gạo thể hiện luồng vật chất là gạo hay lúa.
5.3 Chuỗi giá trị Hồ tiêu
So sánh giá trị gia tăng và lợi nhuận giữa các tác nhân tham gia ngành hàng hồ tiêu, 2004
5.4 Chuỗi giá trị bò thịt –tỉnh Bình Định
5.5 Chuỗi giá trị khoai mỳ tỉnh Bình Định
6. Vấn đề quản lý chuỗi của tác nhân là người sản xuất
Để có thể có lợi nhuận ổn định thì người sản xuất (ở đây nhấn mạnh là hộ nông dân) cần xác định chuỗi giá trị của mình.
‐ Cần xác định các đầu vào cần có cho hoạt động sản xuất một sản phẩm cụ thể, các đầu vào đó là nguyên vật liệu (phân bón, thuốc sâu, thức ăn chăn nuôi, con giống, hạt giống……), các dịch vụ (như lao động, máy móc) làm sao có nguồn cung ứng này ổn định, chất lượng đảm bảo cho hoạt động sản xuất đạt hiệu quả. Thông thường hộ nông dân ít lưu ý việc này, mà thường phụ thuộc vào các đại lý vật tư địa phương, hoặc dựa vào các mối quan hệ ở địa phương, ít tìm kiếm các nguồn cung cấp dịch vụ tốt nhất cho mình, trong đó có mà nguyên nhân là nông dân không có thông tin hoặc việc cận thông tin kém.
‐ Cần xác định “khách hàng” của mình là ai. Qua thực tế nghiên cứu cho thấy, khách hàng của nông dân là thương lái địa phương, khi đến mùa vụ “ai mua giá cao” thì bán, chứ nông dân ít khi có những hợp đồng với các thương lái thu gom địa phương. Ngay cả bản thân lái thu gom địa phương cũng chưa hẳn biết được trong năm họ có thể tiêu thụ được bao nhiêu sản phẩm. Điều này dẫn đến tình trạng là nông dân sản xuất ra, nhưng chưa hẳn biết rõ sản phẩm của mình ai sẽ là người tiêu thụ. Thông thường, thương lái là người thường được “kết tội” là ép giá nông dân, “ngồi không hưởng chênh lệch giá”, nhưng thực chất thương lái là người đã thực hiện chức năng thị trường của mình là đưa sản phẩm đến nhàn máy chế biến hay đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Bản thân người nông dân không thể thực hiện chức năng này vì khi làm điều này sẽ không có lợi về mặt chi phí Marketing (như vận chuyển, phân loại, đóng gói…..), hoặc không thể bán trực tiếp cho nhà máy vì số lượng không đủ lớn.
‐ Như vậy trong bối cảnh hiện nay, nông dân có thể cải thiện vấn đề tiêu thụ sản phẩm của mình ở hai hình thức:
(1) Thông qua việc liên kết với thương lái (có uy tín tại địa phương) để cung cấp sản phẩm ổn định.
(2) Liên kết thành nhóm, câu lạc bộ, tổ hợp tác, hợp tác xã: việc liên kết này có thể giảm các khâu trung gian trong tiêu thụ sản phẩm, vì nhờ liên kết này có thể có khối lượng sản xuất lớn đủ đáp ứng cho việc hợp đồng tiêu thụ với nhà máy chế biến hoặc các đại lý lớn hơn, tức là nông dân liên kết để thực hiện chức năng của thương lái (thực tế ít thành công, hoặc kém bền vững, vì các nhóm thường không đủ năng lực, mối quan hệ, chi phí quản lý thường cao hơn so với thương lái). Cũng trên cơ sở liên kết này, có thể ký các hợp đồng cung cấp vật tư với các đại lý vật tư cấp 1 hoặc các công ty để hưởng giá ưu đãi hoặc nhận các khuyến mãi khi mua số lượng lớn hàng hóa, dịch vụ của các công ty. Liên kết nhóm cũng giúp việc hỗ trợ về mặt kỹ thuật, tín dụng, pháp lý từ các cơ quan quản lý, cơ quan chuyên môn tốt hơn, nhất là đối với các hợp tác xã, câu lạc bộ, tổ hợp tác.
Originally posted 2021-06-13 22:05:33.