cây bông vải

1. Chọn đất trồng cây bông vải  

Hầu hết các loại đất thích hợp cho cây trồng cạn đều có thể trồng bông vải, tuy nhiên để đạt năng suất cao, hiệu quả kinh tế lớn cần chọn đất tốt, giàu dinh dưỡng, tơi xốp, thoát nước, giữ ẩm, ít chua (pHKCl > 5) và có độ mặn thấp dưới 0,4%.

Đối với vùng Tây Nguyên, Đông Nam bộ và Duyên hải miền Trung cần chọn các loại đất bazan nâu đỏ, bazan nâu đen, đất đen, đất xám và đất phù sa không được bồi hàng năm. Cây bông vải là cây ưa nước, nhưng rất sợ bị úng vì vậy cần chọn đất cao ráo, dễ tiêu nước.

Đồng bằng sông Cửu Long nên chọn đất phù sa ven sông Tiền, sông Hậu không bị ngập nước từ tháng 11 đến tháng 5, vùng đất thịt pha cát gò cao có nguồn nước tưới chủ động để trồng bông vụ Đông Xuân có tưới. Ngoài ra có thể trồng bông vụ mưa từ tháng 8 và thu hoạch vào tháng 1 năm sau tại vùng Bảy núi thuộc hai huyện Tri Tôn, Tịnh Biên tỉnh An Giang.

cây bông
Trồng cây bông vải

2. Thời vụ trồng cây bông

Thông thường bông vải ở nước ta có hai thời vụ trồng đó là vụ khô (còn gọi là vụ Đông Xuân) và vụ mưa (còn gọi là vụ Mùa). Tuy nhiên mỗi vùng có điều kiện khí hậu, đất đai khác nhau, nên thời vụ trồng cũng khác nhau.

3. Làm đất trước khi gieo

Đất trồng bông trước khi cày, bừa làm đất cần phải dọn sạch cỏ dại. Dùng cày máy hoặc trâu bò cày sâu, bừa kỹ. Sau đó rạch hàng sâu 7 – 10 cm theo khoảng cách quy định để bón phân lót và gieo hạt bông.

Vùng đất trũng dễ bị ngập khi mưa thì phải tạo rãnh thoát nước.

4. Mật độ và khoảng cách

Mật độ là yếu tố cấu thành năng suất quan trọng, việc xác định mật độ phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, đất đai, giống, thời vụ, trình độ thâm canh…

4.1. Vụ khô

+ Đất tốt, thâm canh cao, gieo đúng thời vụ. Mật độ: 4,0 – 5,0 vạn cây/ha. Khoảng cách: 70 – 80 cm x 30 cm x 1 cây. Lượng hạt gieo: 4,5 – 5,5 kg/ha.

+ Đất trung bình, xấu và gieo muộn. Mật độ: 5,5 – 6,5 vạn cây/ha. Khoảng cách: 50 – 60 cm x 30 cm x 1 cây hoặc 60 – 70 cm x 25 cm x 1 cây. Lượng hạt gieo: 6,0 – 6,5 kg/ha.

4.2. Vụ mưa

+ Đất tốt, thâm canh cao, gieo đúng thời vụ. Mật độ: 3,5 – 4,0 vạn cây/ha. Khoảng cách: 80 – 90 cm x 30 cm x 1 cây. Lượng hạt gieo: 4,0 – 4,5 kg/ha.

+ Đất trung bình, xấu và gieo muộn. Mật độ: 4,0 – 5,0 vạn cây/ha. Khoảng cách: 70 – 80 cm x 30 cm x 1 cây. Lượng hạt gieo: 4,5 – 5,5 kg/ha.

5. Cách gieo hạt bông

– Tiến hành gieo khi đất đang còn ẩm.  Gieo mỗi hốc 1 – 2 hạt, tốt nhất là gieo xen kẽ 2 hạt – 1 hạt – 2 hạt…/hốc.

– Lấp đất nhỏ, mịn, dày 3 – 4 cm, nơi khô hạn thì lấp dày 5 – 7 cm.

– Sau khi gieo xong có thể phun thuốc trừ cỏ Dual 720 EC với liều lượng 1,5 – 2 lít/ha.

6. Phân bón cho cây bông

6.1. Thời kỳ bón phân: Bón lót: Việc bón phân trước khi gieo bông là rất cần thiết và là một tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt có hiệu quả đối với vùng đất xấu và cây trồng trước không phải là cây họ đậu.

6.2. Liều lượng phân bón và số lần bón phân. Các vùng đất tốt: Đất bazan, đất đen, đất phù sa… bón như sau:

  • Tổng lượng phân bón nguyên chất cho 1 ha: 90 kg N + 45 kg P2O5 + 45 kg K2O

  • Loại phân và lượng phân bón cho mỗi lần

Các vùng đất xấu: Đất thịt pha cát, đất xám, đất phù sa không được bồi hàng năm… bón phân như sau:

– Tổng lượng phân bón nguyên chất cho 1 ha 120 kg N + 60 kg P2O5 + 60 kg K2O

Nếu bón phân hỗn hợp NPK thì dựa vào tổng lượng bón để tính cho từng loại phân, loại nào thiếu thì bổ sung p6.

6.3. Sử dụng phân bón lá: Cung cấp bổ sung dinh dưỡng cho cây bông bằng các loại phân bón qua lá là rất cần thiết nhằm tăng khả năng đậu quả, sức chống chịu sâu bệnh, năng suất và phẩm chất sợi. Các loại phân thường dùng hiện nay là: K – HUMATE, VCC, KNO3…

Chú ý:  Không nên sử dụng một số loại phân bón chứa chất kích thích sinh trưởng có tác dụng tương tự như 2,4D sẽ làm lá bị xoăn lại, ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cây bông.

7. Chăm sóc – làm cỏ – xới xáo

Chăm sóc thời kỳ cây con là rất quan trọng, cây khỏe sẽ cho năng suất cao. Khi cây bông đạt 15 ngày sau gieo cần phải xới xáo nhẹ xung quanh gốc nhằm phá váng tạo độ thoáng cho bộ rễ phát triển và trừ cỏ dại lấn át khi cây bông còn nhỏ.

Thời kỳ ra nụ cần tiến hành xới sâu để xúc tiến bộ rễ ăn sâu, độ sâu xới từ 10 – 15 cm. Đồng thời kết hợp vun đất vào gốc cây nhằm chống đổ.

Khi bông đã ra hoa, bộ rễ đã phát triển khá mạnh, lúc này không nên xới sâu làm tổn thương rễ. Chỉ nên xới nhẹ sau mưa hoặc sau khi tưới, đồng thời vun cao vào gốc để tránh cây bị đổ ngã.

8. Bấm ngọn

Bấm ngọn thân chính và bấm đầu cành là kỹ thuật quan trọng trong toàn bộ kỹ thuật chỉnh cành. Bấm đúng lúc sẽ hạn chế ưu thế phát triển về phía ngọn, làm cho nụ nhiều, quả nặng hơn, hạn chế chiều cao cây, và chín sớm.

Bấm ngọn bông phụ thuộc độ phì đất, chế độ chăm sóc, khí hậu, giống… Nên bấm ngọn vào thời kỳ cây bông đã có khoảng 14 – 15 cành quả (70 – 85 ngày tuổi). Sau bấm ngọn thường xuyên đánh cành vượt.

9. Tưới nước và tiêu nước

Bông là cây rất cần nước, nhưng không chịu úng, để đạt năng suất cao, phẩm chất tốt cần chú ý:

– Về mùa khô, tưới định kỳ 10 – 15 ngày/lần.

– Về mùa mưa, phải chủ động tiêu nước, bông vải rất sợ bị úng nước dù chỉ trong thời gian ngắn.

10. Phòng trừ sâu bệnh hại bông

1. Một số loại sâu hại chính trên cây bông

 Sâu xanh: Ngay từ khi sâu non mới nở đã nhanh chóng đục vào ngọn cây, nụ non, hoa, quả. Sức phá của chúng rất lớn, mỗi con có thể làm hại 15 – 20 nụ hoa trong đời của nó (13 – 15 ngày). Sâu tuổi nhỏ gây hại mạnh hơn sâu tuổi lớn, vì chúng di chuyển nhiều để tìm thức ăn.

Sâu xanh phát sinh quanh năm, thường mỗi tháng có 1 lứa. Những tháng không có bông chúng gây hại trên cây trồng khác như đậu xanh, thuốc lá, cà chua, bắp cải…

Sâu loang: Sâu loang còn gọi là sâu gai. Trưởng thành đẻ trứng rải rác ở các bộ phận: búp non, kẽ nách nụ, hoa, quả non, cuống lá, mặt dưới lá non.

Sâu non gây hại nách cành, lá non, đục vào thân làm cho búp non, cành non bị héo rũ. Khi bông lớn chúng đục vào nụ, hoa quả non làm nụ xòe, hoa rụng… khi quả lớn chúng ăn hết quả này sang quả khác.

Sâu cuốn lá: Sâu cuốn lá phát triển trong điều kiện ẩm ướt, âm u về thời tiết. Sâu non ở tuổi 1 – 3 thường tập trung, sau đó mới phân tán bằng cách nhả tơ để qua lá khác, chúng có tập tính cuốn lá, mỗi con có khả năng gây hại 2 – 3 lá.

Sâu hồng: Sâu hồng là một trong những đối tượng kiểm dịch của thế giới và là một trong những loại sâu đục quả khó trị nhất. Sâu non không những phá hại trên đồng ruộng mà còn phá hại hạt trong kho.

Sâu non sau nở đục vào nụ, hoa, quả non. Sống kín đáo trọn đời trong đó. Khi đẫy sức sâu đục 1 lỗ chui ra khỏi quả, xuống đất hóa nhộng hoặc làm nhộng ngay trong quả. Sâu làm cho hoa không nở được, đục quả, ăn hạt.

Sâu keo da láng: Sâu non nở nằm tập trung dưới mặt lá, chúng ăn chất xanh để lại màng lá, sâu lớn ăn hết lá để lại phần gân lá. Chúng cũng ăn lá đài, nụ, hoa và quả non.

Rầy xanh: Rầy xanh tập trung chích hút dịch cây, làm cho cây thiếu dinh dưỡng, còi cọc. Khi bị nhẹ mép lá có màu hơi vàng và cong lên, nặng chuyển màu nâu vàng, rồi đỏ, lá cong queo cháy từ mép lá vào trong. Lá, nụ và quả non bị rụng, làm quả chín ép, ảnh hưởng đến năng suất.

Ở nước ta rầy xanh gây hại quanh năm

Bọ trĩ: Bọ trĩ thường tập trung gây hại dọc theo hai bên gân lá. Cả ấu trùng và trưởng thành đều trực tiếp gây hại bằng cách cứa, hút làm rách tế bào biểu bì lá, những lá bị hại chảy dịch tạo thành một lớp có màu nâu ánh bạc. Cây bông bị hại sẽ cằn cỗi với lá xù xì biến dạng, nụ, hoa, quả non bị rụng.

Rệp: Rệp có đặc tính đẻ con, cả rệp non và trưởng thành đều chích hút dịch cây làm cho lá co rút lại, cây sinh trưởng kém. Trong quá trình gây hại rệp thải ra chất mật dính tạo điều kiện cho nấm đen phát triển, làm ảnh hưởng quá trình quang hợp của cây. Gây hại vào giai đoạn cuối sẽ làm bẩn xơ bông.

Rệp là môi giới lây truyền bệnh xoắn lùn cho cây bông

2. Bệnh chủ yếu hại bông

Bệnh xanh lùn:

Xanh lùn là bệnh gây hại quan trọng cho cây bông. Tác nhân gây bệnh do virus và được lan truyền trong tự nhiên nhờ côn trùng môi giới là rệp bông.

Cây bông có thể bị bệnh khi cây còn nhỏ đến khi cây già. Triệu chứng vết bệnh rìa lá cong xuống phía dưới, lá giòn màu xanh đậm đồng nhất, các đốt thân, cành ngắn lại, cây lùn, khả năng ra hoa đậu quả kém, quả nhỏ, phẩm chất xơ giảm. Nếu cây bông bị bệnh trước 50 ngày sau khi gieo thì hầu như không cho thu hoạch.

Bệnh này không lây truyền qua đất, hạt giống, cơ giới.

Bệnh mốc trắng: Tác nhân gây bệnh do nấm Ramulariopsis gossypii gây ra. Bệnh gây hại trên lá, tấn công từ lá già đến lá bánh tẻ. Cây bị bệnh nặng lá vàng và làm nụ, hoa, quả non bị rụng, quả chín ép, giảm năng suất.

Bệnh xâm nhiễm trong điều kiện lá có giọt nước, nhiệt độ từ 16 – 34oC, đặc biệt là vào cuối mùa mưa. Bệnh lây lan qua không khí, đất, nước tưới, giống…

Bệnh đốm – cháy lá: Bệnh xuất hiện trong mùa mưa, làm thối quả ở tầng dưới, làm giảm năng suất.

Tác nhân gây bệnh do nấm khi Rhizoctonia solani gây ra.

Bệnh lở cổ rễ: Tác nhân gây bệnh do nấm và vi khuẩn như: Rhizoctonia solani,Pythium spp… Bệnh gây hại từ khi cây bông vừa nẩy mầm đến giai đoạn 3 – 4 lá thật trong điều kiện nhiệt độ thấp và ẩm độ đất cao. Triệu chứng là cây héo, ngọn rủ xuống. Cây bị bệnh rất dễ nhổ, vết bệnh ăn vòng quanh thân gần sát mặt đất, và có màu mốc trắng, nâu hoặc đen.

11. Thu hoạch – Phân loại bông hạt

1. Đặc điểm nở quả và tình hình thời tiết lúc thu hoạch: Cây bông từ lúc gieo đến khi quả đầu tiên nở thường mất 100 – 115 ngày. Giống như trình tự nở hoa, đậu quả, quả bông chín từ cành dưới lên và từ trong ra ngoài. Thời kỳ đầu do đặc tính của cây và khí hậu còn ẩm do mưa, tốc độ nở quả thường chậm hơn một chút. Đợt thu hái đầu tiên khi cây có 2 – 3 quả nở và cách quả đầu tiên nở từ 10 – 15 ngày, những đợt sau chỉ cách đợt trước khoảng 7 – 8 ngày.

Khi hết mưa, nắng chiều, nhiệt độ cao, gió lớn bông chín nhanh hơn.

2. Những sai sót thường gặp khi thu hoạch bông hạt

– Thu bông chưa nở đầy đủ: Bông nở đầy đủ là những quả bông có các múi bông bung, xốp, toàn bộ bông phủ kín quả. Quả chưa chín đủ múi bông chưa bung, còn ở dạng múi cau, vỏ quả đang còn tươi, màu xanh. Những quả bông chưa nở hết thường xơ, hạt có độ ẩm cao, nếu không phơi kịp thì dễ bị mốc, làm giảm chất lượng.

– Thu lẫn bông múi cau, bông vàng ố, bông đen: Khi quả chín gặp mưa, bông sẽ bị thối dẫn đến múi bông không thu được, hạt bị thối lép, hoặc do ẩm nên bông bị mốc. Những loại bông này không được thu để chung với loại bông tốt vì nó sẽ làm giảm phẩm cấp bông hạt, nên để riêng.

– Để lẫn lá, tai quả, đất: Khi thu hái không cẩn thận, dễ bị dính đất, lá khô, tai quả vào bông hạt, nhất là thu hái về buổi trưa nắng, chiều, tai lá khô và giòn.

– Để lẫn vật lạ, nhất là sợi nylon: Khi để lẫn sợi nylon vào bông sẽ gây khó khăn lớn cho công đoạn nhuộm màu công nghiệp, đây là vấn đề hết sức cẩn trọng vì ảnh hưởng rất lớn đến phẩm cấp.

Câu Hỏi Thường Gặp

Chọn đất trồng cây bông vải như thế nào hiệu quả?

Hầu hết các loại đất thích hợp cho cây trồng cạn đều có thể trồng bông vải, tuy nhiên để đạt năng suất cao, hiệu quả kinh tế lớn cần chọn đất tốt, giàu dinh dưỡng, tơi xốp, thoát nước, giữ ẩm, ít chua (pHKCl > 5) và có độ mặn thấp dưới 0,4%.

Thời vụ trồng cây bông vải ra sao?

Thông thường bông vải ở nước ta có hai thời vụ trồng đó là vụ khô (còn gọi là vụ Đông Xuân) và vụ mưa (còn gọi là vụ Mùa). Tuy nhiên mỗi vùng có điều kiện khí hậu, đất đai khác nhau, nên thời vụ trồng cũng khác nhau.

Cách gieo hạt bông như thế nào?

Tiến hành gieo khi đất đang còn ẩm. Gieo mỗi hốc 1 – 2 hạt, tốt nhất là gieo xen kẽ 2 hạt - 1 hạt – 2 hạt…/hốc. Lấp đất nhỏ, mịn, dày 3 – 4 cm, nơi khô hạn thì lấp dày 5 – 7 cm. Sau khi gieo xong có thể phun thuốc trừ cỏ Dual 720 EC với liều lượng 1,5 - 2 lít/ha.

Originally posted 2014-04-18 15:41:15.